a


Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012

CHƯ KINH DIỄN ÂM



 
CHƯ KINH DIỄN ÂM

 Soạn giả: Phúc Yên

LỜI NÓI ĐẦU

Chư kinh diễn âm là bộ kinh được biên soạn, dịch giải sang các thể thơ dân tộc như thể lục bát, song thất lục bát ... Các bản kinh được giới thiệu là những bản kinh tiêu biểu thường được hành giả tụng niệm hằng ngày hay vào các dịp ý nghĩa khác nhau như:
-         Kinh A Di Đà, Kinh Vu Lan dùng để cầu siêu, tụng vào các dịp tang hiếu, vu lan hội tháng bảy...
-         Kinh Dược Sư, Kinh Phổ Môn dùng để cầu an, tụng khi gia đình có người ốm đau, bệnh nạn...
Trong quá trình biên soạn dịch giải, không thể tránh khỏi các thiếu xót, sai lầm. Kính mong chư vị hoan hỷ góp ý để bộ kinh được hoàn thiện mãn hảo hơn.

Cư sĩ Phúc Yên

=========================================
PHẦN I: KHAI KINH
(Ghi chú: ký hiệu O là 1 tiếng chuông)

                       
1. NGUYỆN HƯƠNG
Nam-mô Bản Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. O
Hương lòng tỏa ngát khắp mười phương
Hà sa chư Phật chứng tâm hương
Giới đức nguyện hành bồ tát đạo
Lạc bang tịnh độ nguyện tựa nương.O

2. ĐẢNH LỄ TAM BẢO
          * Tất thảy cung kính. Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Phật, Pháp, Tăng thường ở khắp mười phương. O (1 lạy)

          * Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc giáo chủ A Di Đà Phật, Sa bà Giáo chủ Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật, Ðại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Ðại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát, Ðại nguyện Ðịa Tạng vương Bồ tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ tát, Thanh tịnh Ðại hải chúng Bồ tát. O (1 lạy)

          * Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát , Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ tát , Thập Nhị Dược Xoa thần tướng, Dược Sư hải hội Phật Bồ tát. O (1 lạy)

3. TÁN HƯƠNG
Lò hương vừa bén chiên đàn
Tỏa xông pháp giới đạo tràng mười phương
Hiện thành mây báu cát tường
Xin Phật chứng giám tâm hương chí thành
Pháp thân chư Phật tịnh thanh
Chứng minh hương nguyện, phước lành rưới ban.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát.(3 biến) OOO

4. TRÌ CHÚ 
Tịnh pháp giới chân ngôn
Án lam xoa ha (3 biến). O
Tịnh tam nghiệp chân ngôn
Án, sa phạ bà phạ, truật đà sa phạ,
đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám. (3 biến)O
Tịnh khẩu nghiệp chân ngôn
Án tu lị, tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị, tát bà ha. (3 biến) O
Tịnh thân nghiệp chân ngôn
Án tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị, sa bà ha. (3 biến) O
Phổ cúng dàng chân ngôn
Án nga nga nẵng, tam bà phạ phiệt,
nhật la hộc. (3 biến) O O O

5. SÁM HỐI PHÁT NGUYỆN
Chúng đệ tử nặng sâu chướng nghiệp
Tham, sân, si nhiều kiếp đến nay
Tâm hương sám hối tỏ bày
Thọ trì kinh điển đêm ngày cần chuyên
Nguyện sinh về nơi miền cõi Phật
Rũ lòng trần quét sạch khổ đau
Chúng sinh các cõi trước sau
Đều cùng an lạc dài lâu muôn đời.
Nam-mô Bản Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.(3 biến) OOO

6. TÁN DƯƠNG GIÁO PHÁP
Pháp Phật cao siêu, lý rộng sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Nay con gặp được xin trì tụng,
Nguyện hiểu chân kinh nghĩa nhiệm mầu.
Nam-mô Khai Pháp Tạng Bồ-tát. (3 biến) OOO

7. CHÚ ĐẠI BI
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 biến )
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.Nam mô a rị da,bà lô yết đế thước bát ra da,Bồ đề tát đoả bà da,ma ha tát đỏa bà da,ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát toả. Nam mô tất kiết lật đoả ,y mông ra rị da ,bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị,ma ha bà đa sa mế ,tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng ,tát bà tát đa,na ma bà dà ,ma phạt đạt đậu ,đát điệt tha, án a bà lô hê lô ca đế,ca ra đế ,di hê rị ,ma ha bồ đề tát đỏa ,tát bà tát bà ,ma ra ma ra ,ma hê ma hê, rị đà dựng ,cu lô cu lô kiết mông ,độ lô độ lô ,phạt xà ra đế ,ma ha phạt xà ra đế ,đà ra đà ra ,địa rị ni thất Phật ra da, dá ra dá ra .Ma mạ phạt ma ra ,mục đế lệ ,y hê di hê ,thất na thất na ,a ra sâm Phật ra xá lợi ,phạt sa ,phạt sâm,Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra ,hô lô hô lô hê rị ,ta ra ta ra,tất rị tất rị, tô rô tô rô ,bồ đề dạ bồ đề dạ ,bồ đà dạ bồ đà dạ ,di đế rị dạ ,na ra cẩn trì địa rị sắc ni na ,ba dạ ma na sa bà ha .Tất đà dạ sa bà ha ,Ma ha tất đà dạ sa bà ha, Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ sa bà ha .Na ra cẩn trì sa bà ha .Ma ra na ra sa bà ha ,tất a tăng a mục khê da ,sa bà ha .Sa bà ma ha,a tất đà dạ sa bà ha .Giả kiết ra a tất đà dạ ,sa bà ha .Ba đà ma yết tất đà dạ ,sa bà ha ,Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ,sa bà ha .ma bà lị thắng yết ra dạ sa bà ha. Nam mô hắc ra đát na,đa ra dạ da .Nam mô a rị da ,bà lô yết đế, thước bàn ra dạ ,sa bà ha .Án ,tất điện đô, mạn đà ra,bạt đà dạ ,sa bà ha. OOO

8. THẬP CHÚ
1/ Như Ý Bảo Luân Vương Chân Ngôn :
Nam mô Phật đà da
Nam mô Đạt ma da
Nam mô Tăng dà da
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát ma ha hát ,cụ đại bi tâm giả .Đát điệt tha. Án chước yết ra phạt để ,chấn đa mạc ni, ma ha bát đẳng mế,rô rô rô rô ,để sắc tra ,thước ra a yết rị ,sa dạ hồng phấn ta ha .Án,bát đạp ma chấn đa mạc ni ,thước ra hồng. Án ,bát lặc ;đà bát đẳng mế hồng. O

2/ Tiêu Tai Cát Tường Chân Ngôn :
Nẳng mồ tam mãn đa ,mẫu đà nẫm A bát ra để ,hạ đa xá ta nẳng nẫm .Đát điệt tha ,Án khê khê ,khê hế, khê hế ,hồng hồng ,nhập phạ ra ,nhập phạ ra ,bát ra nhập phạ ra ,bát ra nhập phạ ra ,để sắc sá ,để sắc sá ,sắc trí rĩ ,sắc trí rị ,ta phấn tra ,ta phấn tra ,phiến để ca,thất rị duệ ,ta phạ ha. O

3/ Công Đức Bảo Sơn Chân Ngôn :
Nam mô Phật đà da
Nam mô Đạt ma da
Nam mô Tăng dà da
Án ,Tất đế hộ rô rô,tất đô rô,chỉ rị ba ,kiết rị bà ,tất đạt rị ,bố rô rị ,ta phạ ha. O

4/ Phật Mẫu Chuẩn Đề Chân Ngôn :
Khế thủ quy y tô tất đế, đầu diện đảnh lễ thất cu chi .
Ngã kim xưng tán đại Chuẩn Đề ,duy nguyện từ bi thùy gia hộ .Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề ,cu chi nẫm ,đát diệt tha .Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ,sa bà ha. O

5/ Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Chân Ngôn:
Án, nại ma ba cát ngoả đế ,a ba ra mật đạp ,a ưu rị a nạp ,tô tất nể ,thiệt chấp đạp ,điệp tả ra tể dã,đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế tam dược tam bất đạt dã đát nể dã tháp .
Án, tát rị ba ,tang tư cát bị,bót rị thuật đạp ,đạt ra mã đế ,cả cả nại tang mã ngột cả đế ,ta ba ngoả ,tỷ thuật đế ,mã hắt nại dã ,bát rị ngoả rị tá hắt. O

6/ Dược Sư Quán Đảnh Chân Ngôn :
Nam mô bạt dà phạt đế,bệ sát xả, lụ rô thích lưu ly,bát lặt bà,hắt ra xà dã ,đát tha yết đa da, a ra hắt đế ,tam miệu tam bột đà da .Đát điệt tha ,Án ,bệ sát thệ ,bệ sát thệ ,bệ sát xả ,tam một yết đế tá ha. O

7/ Quán Âm Linh Cảm Chân Ngôn :Án, ma ni bát di hồng ,ma hắt nghê nha nạp ,tích đô đặt ba đạt ,tích đặt ta nạp ,vi đạt rị cát ,tát nhi cáng nhi tháp ,bốc rị tất tháp cát nạp ,bổ ra nạp ,nạp bốc rị, thưu thất ban nạp,nam ma lô kiết ,thuyết ra da ,tá ha. O

8/ Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn:
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế,dà ra ni đế ,ni ha ra đế,tỳ lê nể đế ,ma ha dà đế,chân lăng càng đế, sa bà ha. O

9/ Vãnh Sinh Tịnh Độ Chân Ngôn :
Nam mô a di đà bà dạ ,đa tha dà đa dạ,đa địa dạ tha
A di rị đô bà tỳ ,
A di rị đa tất đam bà tỳ
A di rị đa tỳ ca lan đế
A di rị đa tỳ ca lan đa
Dà di nị dà dà na
Chỉ đa ca lệ sa bà ha. O

10/ Thiên Nữ Chân Ngôn :
Nam mô Phật đà,
Nam mộ Đạt mạ
Nam mô Tăng dà
Nam mô thấy lỵ , ma ha đề tỷ da ,đát nễ dã tha ,ba lỵ phú lầu na giá lỵ ,tam mạn đà ,đạt xá ni, ,ma ha tỷ ha ra dà đế,tam mạn đà ,tỳ ni dà đế ,ma hê ca rị dã,ba nể ba ra ,ba nể tát rị phạ lặt tha ,tam mạn đà ,tu bác lê đế ,phú lệ na ,a rị na ,đạt mạ đế ,ma ha tì cổ tất đế, ma ha Di Lặc đế ,lâu phả tăng kỳ đế ,hê đế tỷ ,tăng kỳ hê đế,tam mạn đà ,a tha a nậu ,đà la ni. OOO


 ====================================================
PHẦN II: KINH A DI ĐÀ

PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ

Tôi nghe như vầy:
Nước Xá Vệ, một thời Phật ngự
Vườn Kỳ Đà, Pháp hội có thời
Một ngàn hai trăm năm mươi
Tỳ kheo - La Hán rạng ngời bậc trên
Xá Lợi Phất, Mục Liên, Ca Diếp
Ca Chiên Diên, Châu Lợi Bàn Đà
Câu Hy La, Ly Bà Đa
A Nan cùng với Hầu La, Nan Đà
Phạm Ba Đề, Đầu Lô La Đọa
Lưu Đà Di cùng Kiếp Tân Na
Lâu Đà cùng Bạc Câu La
Các đại đệ tử cùng ra dự đàn
Lại cũng có các hàng Bồ Tát
Ngài Văn Thù con đấng Pháp vương
Bậc đại trí tuệ tỏ tường
A Dật Đa vị tâm thường tín tin
Hạnh vô biên ngài Thường Tinh Tấn
Nguyện vô bờ Bồ Tát Càn Đà
Với nhiều Bồ Tát nữa là
Cùng trời Đế Thích cùng là chư Thiên
Chư đại chúng Kỳ Viên tập hội
Nhân duyên lành hy hữu khôn cùng
Phật bảo Xá Lợi Phất rằng:
Từ đây hướng tới một đằng Tây Phương
Qua vô số mười muôn ức cõi
Cực Lạc là tên gọi nơi này
Di Đà Đức Phật phương Tây
Hiện đang thuyết pháp độ rầy nhân thiên
Xá Lợi Phất, sao tên Cực Lạc ?
Vì cõi này chẳng có khổ phiền
Niềm vui hoan lạc trường miên
Bởi vì lẽ ấy có tên như vầy
Xá Lợi Phất lại rầy Cực Lạc
Cảnh trang nghiêm an lạc ai tày
Lan can bảy lớp giăng đầy
Lưới mành bảy lớp hàng cây bảy hàng
Các thứ này làm toàn bảy báu
Bao vòng quanh khắp cõi như vầy
Thế nên gọi cõi nước này
Là cõi Cực Lạc phương Tây diệu kỳ
Xá Lợi Phất, nữa thì Cực Lạc
Lại có ao bảy báu trang nghiêm
Bát công đức thủy tự nhiên
Cát vàng trải đáy cõi tiên nào bằng
Bốn bên ao đường bằng bảy báu
Cùng lầu vàng điện ngọc pha lê
Hoa sen lớn tựa bánh xe
Xanh vàng đỏ trắng ngát vì sắc hương
Xá Lợi Phất lại thường Cực Lạc
Tiếng nhạc trời réo rắt vang xa
Vàng ròng trải đất những là
Sáu thời mưa xuống mạn đà la hoa
Dân cõi ấy thường ra buổi sáng
Nhặt hoa này cúng tán Phật Đà
Bay đi các cõi gần xa
Tới giờ ăn lại về nhà thảnh thơi
Thụ cơm rồi kinh hành thiền định
Cõi Phật này thanh tịnh oai nghi
Các chim màu sắc diệu kỳ
Xanh vàng đỏ trắng thực thì đẹp thay
Chim Khổng Tước cùng tày Bạch Hạc
Anh Vũ cùng Xá Lợi, Tần Già  (Ca Lăng Tần Già)
Cùng chim Cộng Mạng những là
Ngày đêm sáu buổi xướng ca pháp thần
Diễn những pháp ngũ căn, ngũ lực
Thất bồ đề, bát thánh đạo phần
Nhiệm màu kỳ diệu pháp âm
Khuyến người niệm Phật, Pháp, Tăng chuyên trì
Xá Lợi Phất sự kỳ như vậy
Các loài chim chẳng phải nghiệp thân
Chẳng phải tội báo trầm luân
Chúng sinh cõi ấy chẳng lâm ba đường
Tên đường ác còn dường chẳng có
Huống chi là thật có ác duyên
Phật Đà muốn Pháp lưu truyền
Thế nên chim quý ngài liền biến ra
Xá Lợi Phất nữa là cõi ấy
Gió hây hây rung nhẹ hàng cây
Làm hàng lưới báu lung lay
Tạo âm vi diệu nhạc hay hòa đồng
Người nghe thấy sinh lòng hoan hỉ
Cùng hành trì niệm Phật Pháp Tăng
Cực Lạc cõi ấy đâu bằng
Trang nghiêm công đức tựu thành nguy nga
Xá Lợi Phất, Di Đà Phật hiệu
Phật danh này ông hiểu được chăng ?
Thế Tôn mới dạy lời rằng:
Di Đà Phật ấy hào quang rạng ngời
Vô Lượng Quang chiếu soi khắp chốn
Khắp mười phương không chướng ngại gì
Cao siêu bất khả tư nghì
Vậy nên danh hiệu Phật A Di Đà
Xá Lợi Phất, nữa là Phật ấy
Cùng nhân dân hết thảy thọ trường
A tăng kỳ kiếp vô lường
Vô Lượng Thọ vậy nên danh Di Đà
Xá Lợi Phất, Di Đà Đức Phật
Kể từ khi thành Phật đến nay
Đã qua mười kiếp lâu dày
Không ngừng hóa độ đủ đày chúng sinh
Các đệ tử độ thành La Hán
Hay các hàng Bồ Tát đủ đông
Quá nhiều như số cát sông
Cực lạc thế giới tận cùng trang nghiêm
Xá Lợi Phất,  ở miền Cực Lạc
Vãng sinh về, ai cũng thọ trường
Ở ngôi bất thoái khôn lường
Nhất sinh bổ xứ lại dường rất đông
Con số ấy nói không kể xiết
Vì vậy ai nghe biết điều này
Nên cầu vãng sinh về đây
Nơi Cõi Cực Lạc, phương Tây, Di Đà
Gặp được bậc đều là thượng thiện
Cùng đồng tâm tinh tiến tu hành
Xá Lợi, đâu chút căn lành
Nhân duyên phúc đức mà sinh được về
Xá Lợi Phất, thiện nam, thiện nữ
Được nghe câu lục tự di đà
Chấp trì danh hiệu đó ra
Hoặc trong ngày một hoặc là ngày hai
Ngày thứ ba hoặc ngày thứ bốn
Ngày thứ năm hoặc tới sáu ngày
Hoặc rằng cho tới bảy ngày
Nhất tâm bất loạn chẳng rầy đảo điên
Lúc lâm chung về miền Cực Lạc
A Di Đà thánh chúng dẫn đường
Xá Lợi, sự ích khôn lường
Nên ta mới nói tuyên dương độ đời
Ai đã nghe được lời ta nói
Nên nguyện cầu về cõi Tây Phương
Xá Lợi, khi ta tán dương
A Di Đà Phật đủ đường đức công
Ở phương Đông có A Súc Phật
Cùng Tu Di Tướng Phật thay là
Đại Tu Di Phật cũng hòa
Tu Di Quang Phật cùng là Diệu Âm
Cùng  chư Phật nhiều như số cát
Đều hiện ra tướng lưỡi khắp miền
Bao trùm thế giới tam thiên
Nói lời chân thật dạy khuyên muôn loài
Các chúng sinh nên thời tin kính
Bộ kinh này Chư Phật tán dương
Xá Lợi Phất, cõi Nam phương
Nhật Nguyệt Đăng Phật tán dương Di Đà
Cùng với cả Danh Văn Quang Phật
Đại Diệm Kiên Đức Phật thay là
Tu Di Đăng Phật cũng hòa
Vô Lượng Tinh Tấn Phật Đà chiếu quang
Cùng  chư Phật nhiều bằng số cát
Đều hiện ra tướng lưỡi khắp miền
Bao trùm thế giới tam thiên
Nói lời chân thật dạy khuyên muôn loài
Các chúng sinh nên thời tin kính
Bộ kinh này Chư Phật tán dương
Xá Lợi Phất, cõi Tây Phương
Vô Lượng Thọ Phật tán dương Di Đà
Cùng với cả Vô Lượng Tướng Phật
Vô Lượng Trường Đức Phật thay là
Đại Quang Đức Phật cũng hòa
Đại Quang, Bảo Tướng cùng là Tịnh Quang
Cùng  chư Phật nhiều bằng số cát
Đều hiện ra tướng lưỡi khắp miền
Bao trùm thế giới tam thiên
Nói lời chân thật dạy khuyên muôn loài
Các chúng sinh nên thời tin kính
Bộ kinh này Chư Phật tán dương
Xá Lợi Phất, cõi Bắc phương
Có Diệm Kiên Phật tán dương Di Đà
Cùng với cả Phật Đà Nan Trở
Tối Thắng Âm Đức Phật thay là
Nhật Sinh Đức Phật cũng hòa
Võng Minh Đức Phật cũng đà chiếu quang
Cùng  chư Phật nhiều bằng số cát
Đều hiện ra tướng lưỡi khắp miền
Bao trùm thế giới tam thiên
Nói lời chân thật dạy khuyên muôn loài
Các chúng sinh nên thời tin kính
Bộ kinh này Chư Phật tán dương
Xá Lợi Phất, cõi hạ phương
Có Sư Tử  Phật tán dương Di Đà
Cùng với cả đức Danh Văn Phật
Phật Danh Quang với Phật Đạt Ma
Pháp Trường Đức Phật cũng hòa
Đức Trì Pháp Phật cũng đà chiếu quang
Cùng  chư Phật nhiều bằng số cát
Đều hiện ra tướng lưỡi khắp miền
Bao trùm thế giới tam thiên
Nói lời chân thật dạy khuyên muôn loài
Các chúng sinh nên thời tin kính
Bộ kinh này Chư Phật tán dương
Xá Lợi Phất, cõi thượng phương
Phạm Âm Phật với Tú Vương hay là
Đại Diệm Kiên, Hương Quang, Hương Thượng
Phật Bảo Hoa, Tạp Sắc Bảo Hoa
Ta La Thọ , Phật Bảo Hoa
Kiến Nhất Thiết Nghĩa cùng là Tu Di
Cùng  chư Phật nhiều như số cát
Đều hiện ra tướng lưỡi khắp miền
Bao trùm thế giới tam thiên
Nói lời chân thật dạy khuyên muôn loài
Các chúng sinh nên thời tin kính
Bộ kinh này Chư Phật tán dương
Xá Lợi Phất nghĩ cho tường
Chư Phật hộ niệm bởi dường tại sao
Xá Lợi Phất, người nào nam nữ
Nghe kinh này tín sự thọ trì
Nghe danh chư Phật từ bi
Chư Phật hộ niệm độ thì gái trai
 Độ cho được ở nơi bất thoái
Thẳng đường tu chính giác chóng nên
Xá Lợi Phất hãy kính tin
Những lời ta nói dạy khuyên mọi người
Cùng những lời các chư Phật nói
 Xá Lợi này, Ai đã phát nguyền
Hiện đang hoặc sẽ phát nguyền
Muốn về Cực Lạc nương duyên Di Đà
Những người đó được nên bất thoái
Chóng nên ngôi chính giác bồ đề
Hoặc rằng đã được sinh về
Hoặc đang hoặc sẽ sinh về lạc bang
Xá Lợi Phất, thiện nam, thiện nữ
Có lòng tin nên phát nguyện ra
Nguyện sinh về cõi Di Đà
Tây phương cực lạc liên hoa đón chờ
Xá Lợi Phất, như ta khen ngợi
Công đức sâu của các Phật Đà
Chư Phật cũng lại khen ta
Sa Bà giáo chủ Thích Ca ở đời
Làm những việc khó thời ít có
Nguyện lòng từ cứu độ chúng sinh
Giữa đời năm trược mênh mênh
Kiếp trược thời đại không ngừng đổi thay
Sự kiến trược sai lầm tà bậy
Trược não phiền tham hận tơi bời
Chúng sinh trược cảnh luân hồi
Vô thường mạng trược tuổi đời ai hay
Năm thứ trược nhơ rầy quét sạch
Chứng thượng ngôi chính giác Phật Đà
Vì thương dân cõi Sa Bà
Nên Ngài nói Pháp thực mà khó tin
Xá Lợi Phất, ông nên phải biết
Cõi Sa Bà ác trược hoành hành
Ta làm việc khó thực hành
Mà nay đã được viên thành tối cao
Đặng đạo quả Phật thành chính giác
Mà ngày nay nói pháp khó tin
Đó là việc khó quả nhiên
Thậm thâm công đức vô biên hải hà
Phật nói pháp Di Đà vừa dứt
Xá Lợi cùng Bồ tát, Tỳ kheo
Trời người khắp cả tin theo
Xưng dương lễ tạ cùng đều trở ra
Nam mô Linh Sơn hội thượng Phật Bồ Tát (3 biến)

VÃNG SANH QUYẾT ÐỊNH CHÂN NGÔN

Nẵng mồ A di đá bà dạ, đá tha dà đá dạ. Ðá điệt dạ tha. A di rị đô bà tì. A di rị đá tất đam bà tì. A di rị đá tì ca lan đế. A di rị đá ti ca lan đá. Dà di nị dà dà na. Chỉ đá ca lệ ta bà ha. (O) (3 biến)

TÁN PHẬT DI ĐÀ
Phật Di Đà mình vàng lấp lánh
Tướng tốt thay trong sáng khôn bì
Mi trắng năm núi Tu Di
Mắt như bốn biển xanh rì sáng trong
Hào quang hóa Phật hình vô ức
Hiện vô biên Bồ tát diệu hình
Bốn mươi tám nguyện độ sinh
Hoa sen chín phẩm chúng sinh nương về
Nam Mô Liên Trì hải hội Phật Bồ Tát (O) (3 biến)

Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật (3 biến)

Nam mô A Di Đà Phật (tùy tâm)

Nam Mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát  (10 biến) O

Nam Mô Ðại Lực Ðại Thế Chí Bồ Tát (10 biến) O

Nam Mô Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát (10 biến) O

Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát (10 biến) OOO
========================================================

PHẦN II: KINH DƯỢC SƯ


KINH BẢN NGUYỆN VÀ CÔNG ĐỨC
CỦA ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯ

Tôi nghe như vầy:
Một thủa nọ Thế Tôn du hóa
Thành Quảng Nghiêm tọa hạ nghỉ chân
Bấy giờ dưới cội Nhạc Âm
Tám ngàn đại đức chư tăng hội đàn
Cùng ba vạn sáu ngàn bồ tát
Bậc quốc vương, cư sĩ, đại thần
Bà La môn, chúng phàm dân
Trời người tám bộ xa gần kính tin
Ứng nhân duyên Văn Thù Bồ Tát
Ngài chắp tay nương Phật thần uy
Đại tâm hỉ xả từ bi
Cúi đầu kính lễ thực thì kính thưa
Bạch sư phụ, xin Ngài nói rõ
Những danh hiệu bản nguyện rộng khắp
Công đức của các Như Lai
Khiến cho lợi lạc muôn loài gần xa
Phật Thích Ca lòng đầy khen ngợi
Bảo Văn Thù, hướng tới phương Đông
Trải qua nhiều cõi vô cùng
Chừng bằng mười số cát trong sông Hằng
Cõi Phật ấy nghiêm trang tịnh mật
Giáo chủ là Đức Phật Dược Sư
Công đức cõi tịnh Lưu Ly
Mười hai đại nguyện khắp vì chúng sinh
Nguyện thứ nhất đắc thành đạo quả
Ánh hào quang tỏa khắp thân ta
Chiếu soi thế giới bao la
Chúng sinh đều được tướng đà trang nghiêm
Thứ hai nguyện khi thành đạo quả
Khắp thân ta tựa ngọc lưu ly
Sạch trong tỏa chiếu uy nghi
Như vầng nhật nguyệt độ trì bốn phương
Khắp chúng sinh đều thường nương tựa
Tâm tu hành trí tuệ mở mang
Siêng năng thành tựu vẹn toàn
Khắp hòa nhân thế ngập tràn niềm vui
Thứ ba nguyện ở ngôi chính giác
Dùng phương tiện trí tuệ vô biên
Chúng sinh ở khắp mọi miền
Nhu cầu đầy đủ chẳng phiền chẳng lo
Nguyện thứ tư giúp người tà đạo
Quay trở về chính đạo thẳng ngay
Kẻ nào vị kỷ không hay
Đại thừa rộng mở dắt tay dẫn vào
Thứ năm nguyện gia trì hộ đạo
Giúp hữu tình tu đạo tịnh thanh
Tam tụ tịnh giới pháp lành
Kẻ nào lỡ phạm sám danh hết nàn
Nguyện thứ sáu giúp người khiếm khuyết
Bị tật nguyền chẳng đủ lục căn
Thành tâm niệm hiệu Phật danh
Thân tâm an lạc các căn đủ đầy
Nguyện thứ bảy giúp người bệnh khổ
Không cửa nhà chẳng chỗ nương thân
Thành tâm niệm Phật ân cần
Bệnh, nghèo, khổ não dần dần biến tan
Nguyện thứ tám giúp cho người nữ
Phải chịu nhiều khổ sở buồn đau
Thành tâm niệm Phật nguyện cầu
Chuyển thân nam tử làu làu tiến tu
Nguyện thứ chín giúp người tà kiến
Thoát khỏi vòng chướng nghiệp ma vương
Trợ duyên khai trí mở đường
Tu hạnh bồ tát hiển dương bồ đề
Nguyện thứ mười giúp người tù ngục
Bị hành hình khổ nhục tấm thân
Hễ nghe Phật hiệu uy thần
Mà thoát khỏi hết muôn phần khổ đau
Nguyện mười một giúp người đói khát
Vì miếng ăn tạo ác chẳng tu
Niệm danh đức Phật Dược Sư
Tự nhiên no đủ cùng tu đạo mầu
Nguyện mười hai giúp cho kẻ khó
Chẳng phục y chẳng chỗ nương thân
Thành tâm niệm Phật ân cần
Sở cầu như ý thành tâm mãn nguyền
Này hỡi ngài Văn Thù Sư Lợi
Cõi Lưu Ly của Phật Dược Sư
Đất làm bằng ngọc lưu ly
Khắp toàn thất bảo thành trì trang nghiêm
Tựa Cực Lạc Tây Phương chẳng khác
Có nhị vị bồ tát trang nghiêm
Nhật Quang Biến Chiếu diệu nhiên
Nguyệt Quang Biến Chiếu hiệu tên hai ngài
Vậy những người có lòng thành kính
Nên nguyện về cõi tịnh Lưu Ly
Chúng sinh nặng nghiệp sân si
Tham lam bỏn xẻn biết gì trước sau
Khi chia sớt lòng sầu buồn não
Chẳng biết về quả báo khổ đau
Sa vào ngạ quỷ súc sinh
Phải chịu nghiệp báo ngục hình không sai
Nếu lúc đó nhớ danh Phật hiệu
Sẽ được sinh trở lại làm người
Thực hành bố thí giúp người
Tu nhân tích thiện xa rời khổ đau
Nếu có kẻ quay đầu hướng thiện
Cũng đã từng mê muội đảo điên
Ngu si tà kiến liên miên
Trôi lăn sáu nẻo khổ ưu phiền khổ đau
Nay hướng thượng quy đầu sám hối
Nhập đạo tràng pháp hội Dược Sư
Tán dương chính pháp chân như
Khổ đau phiền não ngục tù phá tan
Lại có người trái oan thù hận
Khổ tâm vì kiện tụng hại nhau
Bùa tà chú thuật thâm sâu
Sát sinh hại vật kêu cầu quỷ ma
Đức Dược Sư vị tha thương xót
Nếu có ai nghe được danh ngài
Bùa tà chẳng thể tác oai
Tâm lành hướng thiện xa rời oan khiên
Kẻ thiện nhân phước duyên tu tập
Hướng lòng về cõi Phật Tây Phương
Dùng dằng lòng vẫn vấn vương
Nếu nghe Phật hiệu lẽ thường tỉnh ra
Lúc mạng chung tám tòa bồ tát
Đức Văn Thù, Đức Quán Thế Âm
Đức Đại Thế Chí tận tâm
Đức Vô Tận Ý  giáng lâm dẫn đường
Bảo Đàn Hoa, Dược Vương Bồ Tát
Đức Dược Thượng, Di Lặc đón đưa
Nguyện nhờ Phật lực Dược Sư
Tây phương tiếp độ hoặc lên cõi trời
Khi tuổi thọ cõi trời đã mãn
Lại được sinh làm chuyển luân vương
Đức tài rạng rỡ mười phương
Ơn lành khuyến hóa mười đường thiện duyên
Chúng hữu tình ưu phiền bệnh khổ
Đức Dược Sư cứu hộ hoằng khai
Phật tuyên thần chú tiêu tai
Khiến cho ba cõi bốn loài  an vui
Nếu có ai vì người bệnh khổ
Trì chú này vừa đủ công phu
Tạo hình Đức Phật Dược Sư
Phát tâm thanh tịnh đại từ đại bi
Luôn đọc tụng ngẫm suy kinh điển
Hằng thực hành hạnh nguyện Như Lai
Cát tường hạnh phúc đáo lai
Trừ tai giải ách muôn đời bình an
Phật mới hỏi A nan khi đó
Ông có tin việc đó hay chăng
A nan cung kính bạch rằng
Lời chư Phật nói vĩnh hằng không sai
Trong chúng hội có vì Bồ Tát
Tự danh là Cứu Thoát liền thưa
Có người bệnh khổ ốm ưa
Tứ phương cứu chữa vẫn chưa thoát nàn
Người bệnh ấy mơ màng chẳng biết
Hồn bị đưa về cõi Diêm La
Bấy giờ tội phúc khảo tra
Định xem sinh tử phút đà ra sao
Nếu Phật tử vì người bệnh ấy
Nên thắp đèn cùng với thần phan
Tụng kinh niệm Phật cầu an
Khiến cho người bệnh bình an lại lành
Nghe Phật Danh Dược Sư cung kính
Quyết một lòng dưỡng tính tu thân
A nan đại đức ân cần
Hỏi về cách thức độ nhân cứu người
Ngài cứu thoát dâng lời tác bạch
Cách thực hành cứu độ bệnh nhân
Phát tâm giữ giới chuyên cần
Từ bi hỷ xả ân cần trước sau
Lập đàn tràng nguyện cầu chư Phật
Bốn chín ngày thành khẩn đèn hương
Tràng phan treo trước Phật đường
Đốt đèn tục mạng cúng dường chư Tăng
Đức A nan hỏi rằng duyên cớ
Mạng hết rồi sao được sống thêm
Cứu Thoát bồ tát thưa lên
Trên đời có chín hoạnh hồn chết oan
Loại thứ nhất chẳng thang chẳng thuốc
Cũng không người chăm sóc chở che
Thứ hai những kẻ đam mê
Chết vì tửu sắc ê chề xót xa
Loại thứ ba tội hình xử tử
Loại thứ tư chết đuối chết chìm
Thứ năm chết cháy hỏa thiêu
Thứ sáu ác thú gặp điều tan thây
Loại thứ bảy rơi từ cao xuống
Thứ tám là uống phải thuốc ma
Chín là chết đói xót xa
Diêm Vương ghi sổ xét tra tỏ tường
Muốn thọ trường thời nên tạo phước
Pháp Dược Dư treo phướn thắp đèn
Phóng sinh niệm Phật cần chuyên
Xa rời khổ ách bình yên muôn đời
Lúc bấy giờ trong nơi chúng hội
Có mười hai đại tướng Dược Xoa
Cùng nhiều quyến thuộc đồng hòa
Quy y Tam Bảo nguyện ra giúp đời
Quyết hộ pháp bảo trì kinh điển
Giúp thiện nhân ước nguyện viên thành
Chỉ ngũ sắc kết thành danh
Sở cầu như nguyện mới đành tháo ra
Đúng lúc đó Phật đà hoan hỷ
Ngài ngợi khen các vị Dược Xoa
Ban vui cứu khổ gần xa
Đền ơn chư Phật hải hà cao sâu
Phật nói Pháp Dược Sư cứu thế
Tứ chúng đều hoan hỷ ngợi ca
Thọ trì hiểu nghĩa sâu xa
Ba ngàn thế giới khắp hòa an vui
Nam mô Dược Sư Hải Hội Phật Bồ Tát (3 biến) OOO
DƯỢC SƯ CHÂN NGÔN
Nam-mô Bạc-già-phạt-đế, bệ-sát-xã, lũ-lô-thích-lưu-ly, bác-lặc-bà, hắc-ra-xà-giả. Đát-tha yết-đa-gia, a-ra-hắc-đế. Tam-miệu tam-bột-đà-gia, đát-điệt-tha. Án bệ-sát-thệ, bệ-sát-thệ, bệ-sát-xã, tam-một yết-đế xoa-ha.  3 biến)  O

TÁN PHẬT DƯỢC SƯ
Đông phương giáo chủ Dược Sư
Mười hai nguyện lớn cứu chư hữu tình
Đàn tràng chí thiết lòng thành
Tiêu tai tăng thọ phúc lành bình an.
Nam-mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật (3 biến) OOO

TÁN KINH DƯỢC SƯ
Cõi Sa Bà dư muôn đau khổ
Đại pháp kinh cứu độ muôn loài
Mười hai đại nguyện tiêu tai
Ba ngàn hóa Phật vì đời chứng minh
Giúp hữu tình tháo dây oán kết
Tăng quả lành giải hết tai ương
Nguyện về cõi Phật Đông phương
Nhân gian an lạc thọ trường thiên xuân
Nam-mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai bản nguyện công đức kinh (3 biến) OOO

Giải kết giải kết giải oan kết
Nghiệp chướng bao đời đều giải hết.
Rửa sạch lòng trần, phát thành tâm
Quỳ trước Phật đài, cầu giải kết
Dược Sư Phật, Dược Sư Phật.
Tiêu Tai Tăng Thọ Dược Sư Phật.
Tuỳ tâm mãn nguyện Dược Sư Phật.  O

TÁN DƯƠNG DƯỢC-XOA
Mười hai thần tướng Đại Dược Xoa
Giúp Phật Dược Sư ở Sa Bà
Thần danh kết viết bùa năm sắc
Ước nguyện viên thành, nghiệp rời xa

Nguyện xưng dương danh hiệu mười hai đại tướng Dược Xoa
Thần Cung-tì-la, thần Phạt-chiếc-la,
Thần Mê-suý-la, thần An-để-la,
Thần Át-nể-la, thần San-để-la,
Thần Nhân -đạt-la, thần Ba-di-la,
Thần Ma-hổ-la, thần Chân-đạt-la,
Thần Chiêu-đổ-la, thần Tỳ-yết-la, OOO

NIỆM PHẬT
Nam mô Đông phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. (3 biến) O
Niệm NAM thời chẳng sát sinh
Niệm MÔ thời chẳng cướp rình người ta
Niệm DƯỢC thời chẳng dâm tà
Niệm SƯ thời chẳng sai ngoa lọc lừa
Niệm PHẬT chè rượu xin chừa
Ghi tâm khắc nguyện chẳng mờ lòng son
* NAM MÔ DƯỢC SƯ PHẬT (tùy tâm)

Nam mô Thiện Xưng Danh Cát Tường Vương Phật.(3 biến) O
Nam mô Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Phật (3 biến) O
Nam-mô Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Vương Phật  (3 biến)  O
Nam-mô Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Vương Phật (3 biến)  O
Nam-mô Pháp Hải Lôi Âm Vương Phật. (3 biến)  O
Nam-mô Pháp Hải Thắng Huệ Du Hí Thần Thông Vương Phật. (3 biến)  OOO
Nam mô Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát. O
Nam mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát. O
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. O
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. O
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. O
Nam mô Vô Tận Ý Bồ Tát. O
Nam mô Bảo Đàn Hoa Bồ Tát. O
Nam mô Dược Vương Bồ Tát. O
Nam mô Dược Thượng Bồ Tát. O
Nam mô Di Lặc Bồ Tát. O
Nam mô Cứu Thoát Bồ Tát. O
Nam mô Dược Sư hội thượng Phật Bồ Tát (3 biến) O O O

 ============================================================
PHẦN IV: KINH PHỔ MÔN


DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH
QUÁN ÂM BỒ TÁT PHẨM PHỔ MÔN

Nam mô Pháp Hoa hội thượng Phật bồ tát (3 biến) O

Bấy giờ, trong hội Pháp Hoa
Ngài Vô Tận Ý từ tòa khởi thân
Bạch Thế Tôn: Quán Âm Đại Sĩ
Nhân duyên gì danh hiệu như vầy
Phật Đà chỉ dạy cho hay
Chúng sinh các cõi đắng cay, cơ hàn
Muốn thoát khỏi muôn vàn khổ ấy
Niệm Quán Âm sẽ thấy diệu kỳ
Tầm thanh cứu khổ một khi
Tự nhiên giải thoát tức thì thảnh thơi
Nếu gặp nạn nước trôi, lửa cháy
Hay gông cùm, quan lại hành hình
Hoặc thời giặc cướp điêu linh
Hoặc thời La Sát, yêu tinh hại người
Lúc đó thời niệm danh Bồ Tát
Đức Quán Âm giải thoát nạn tai
Những người dâm dục tham hoài
Cùng người sân hận, cùng người ngu si
Danh Quán Âm thọ trì tụng niệm
Tức thời lìa tham dục, sân, si
Quán Âm Bồ Tát đại bi
Giúp người thỏa nguyện cầu thì gái trai
Sinh nam tử đủ tài, đủ đức
Sinh nữ nhi, mặt ngọc, da ngà
Bấy giờ Đức Phật Thích Ca
Khuyến người tụng niệm danh đà Quán Âm
Dù mới chỉ nhất tâm kính niệm
Công đức sinh vô lượng vô biên
Bằng người tụng niệm thường xuyên
Hằng sa Bồ Tát tinh chuyên cúng dàng
Quán Âm niệm, muôn vàn công đức
Quả tốt lành, phúc thọ trường diên
Ngài Vô Tận Ý thưa lên:
Quán Âm Bồ Tát vào miền thế gian
Cõi Sa Bà mênh mang bể khổ
Ngài Quán Âm cứu độ chúng sinh
Mênh mang bể khổ điêu linh
Quán Âm Bồ Tát độ sinh thế nào
Phật mới bảo, ngài Vô Tận Ý
Đức Quán Âm Đại Sĩ độ sinh
Tùy duyên phương tiện hiện hình
Ba mươi hai tướng cứu sinh kịp thời
Khi hiện tướng Như Lai Đức Phật
Khi hiện thời Duyên Giác, Thanh Văn
Khi thời hiện tướng Phạm Vương
Khi hiện Đế Thích duyên nương độ đời
Tự Tại Thiên khi thời ứng hiện
Khi hiện liền Đại Tự Tại Thiên
Hiện thân Thiên Đại tướng quân
Tỳ Sa Môn cũng có phen hiện hình
Có phen hiện Tiểu Vương, Trưởng Giả
Bà La Môn, Cư Sĩ, Tể Quan
Tăng, ni, Phật tử nữ nam
Hay người đồng nữ đồng nam kịp thời
Khi hiện tướng của người phụ nữ
Khi hiện thân Càn Thát, Dạ Xoa
Thiên Long cùng Ca Nâu La
Tu La với Khẩn Na La hiện hình
Khi hiện tướng rắn thần Đại Mãng (*)
Nhân, phi nhân, tướng chấp kim cương
Tùy duyên ứng hiện khác thường
Dong thuyền bát nhã tìm phương độ đời
Phật khuyến người nên thời tôn kính
Trì niệm danh Tịnh Thánh Quán Âm
Bậc Đại Bồ Tát độ nhân
Bậc ban vô úy xa gần mười phương
---------------------------------------------------------------------------------
Chú thích: rắn thần Đại Mãng  còn gọi là Ma Hầu La Già.
Nước cam lồ, cành dương diệu pháp
Giúp chúng sinh giải thoát mê lầm
Nhiệm màu công đức Quán Âm
Ngài Vô Tận Ý khởi tâm cúng dàng
Chuỗi anh lạc ngọc vàng như ý
Nguyện cúng dâng Đại Sĩ Quán Âm
Quán Âm chẳng nhận bảo trân
Phật Đà mới giảng pháp tâm cúng dàng
Ông nên vì bốn hàng phật tử
Cùng thập phương đại chúng nhân gian
Nghe lời Phật dạy rõ ràng
Quán Âm mới nhận chuỗi vàng ngọc châu
Rồi dụng phép phân hai chuỗi ngọc
Một cúng dàng Đức Phật phương xa (*)
Một dâng Đức Phật Thích Ca
Cùng dàng công đức hài hòa chu viên
Ngài Trì Địa thưa lên Đức Phật
Bạch Thế Tôn, chân thật pháp mùa
Chúng sinh theo đó nguyện cầu
Quán Âm thị hiện pháp màu thần thông
Ai nghe được phát lòng vô thượng
Bồ đề tâm trưởng thượng tăng sinh
Nguyện cầu khắp cả chúng sinh
Đều thành Phật đạo phúc lành bình an

---------------------------------------------------------------------------------
Chú thích: Đức Phật phương xa là Đa Bảo Như Lai.
TÁN QUÁN ÂM
Từ bi thị hiện độ sinh
Quán Âm cứu khổ chúng sinh mê lầm
Ba hai ứng hóa hiện thân
Mười hai đại nguyện Phật tâm bồ đề

THẬP NHỊ NGUYỆN QUÁN ÂM
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát

Nguyện thứ nhất hành bồ tát đạo
 Hiệu Viên Thông, Tự Tại, Quán Âm
Nguyện lòng độ khắp thế nhân
Cùng lên bờ giác Quán Âm thệ nguyền

Thứ hai nguyện tâm không chướng ngại
Thường ở nơi Nam Hải độ sinh
Cứu người thoát khỏi điêu linh
Đưa lên bờ giác phút lành không xa

Nguyện thứ ba tầm thanh cứu khổ
Độ Sa Bà, cùng độ U Minh
Cứu cho khắp cả chúng sinh
Đều cùng an lạc phúc lành bình yên
Thứ tư nguyện trừ yêu diệt quái
Cát tường ban tai hại tống đi
Giải trừ đau khổ hiểm nguy
Quán Âm đại nguyện khắp vì chúng dân

Nguyện thứ năm tịnh bình dương liễu
Nước cam lồ mát dịu ngọt ngào
Rửa tan phiền não trần lao
Đưa về bờ giác tiêu dao lạc thành

Nguyện thứ sáu thường hành bình đẳng
Đại từ bi hỉ xả độ sinh
Dứt trừ nghiệp chướng điêu linh
Thường hành bình đẳng cứu sinh độ đời

Nguyện thứ bảy tuần du các cõi
Đưa chúng sinh thoát khỏi tam đồ
Khổ đau địa ngục ai ngờ
Súc sinh, ngạ quỷ mê mờ sạch tan

Nguyện thứ tám giúp người tù ngục
Bị gông cùm đánh đập khảo tra
Hết lòng cầu nguyện thiết tha
Quán Âm cứu trợ giúp qua nhẹ nhàng

Nguyện thứ chín Ngài dong thuyền pháp
Đưa chúng sinh thẳng tới Niết Bàn
Nguyện lòng độ tận nhân gian
Thoát nơi bể khổ muôn vàn đắng cay
Nguyện thứ mười Phương Tây chỉ lối
Cùng tràng phan, bảo cái, lọng tàn
Quan Âm tiếp dẫn phóng quang
Tây phương cực lạc thẳng đàng tới ngay

Nguyện mười một phương Tây cõi Phật
Đức Di Đà thọ ký Quán Âm
Mở lòng hỷ xả từ tâm
Thế gian năng niệm Quán Âm thoát nàn

 Nguyện mười hai muôn vàn công đức
Chuyển pháp thân đoan chính nghiêm trang
Mười hai đại nguyện vẻ vang
Liên trì hải hội sen vàng nở hoa

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (tùy tâm)

=============================================


PHẦN V: KINH VU LAN

 PHẬT THUYẾT KINH VU LAN BỒN
***
Tôi nghe như vầy:
Một thủa nọ tại thành Xá Vệ
Phật Thích Ca thuyết lý kinh này
Khởi duyên chính tại như vầy
Có ông Phó Tướng tu rầy tại gia
Vợ: Thanh Đề, con là La Bốc
Ông dụng tu lục độ từ bi
Còn đâu bà vợ Thanh Đề
Làm bao điều ác cùng thì gian tham
Một thời gian ông cư sĩ mất
Mãn hạn tang vừa thật ba năm
La Bốc thưa với mẹ rằng:
Tính xem của cải còn chừng bao nhiêu
Tính toán xong gia tài còn lại
Ba vạn quan La Bốc thưa rằng:
Xin mẹ chia đủ ba phần
Một xin dâng mẹ tỏ lòng hiếu ân
Một phần nữa nguyện dâng Tam Bảo
Phần thứ ba con thảo xin cầm
Đi xa lấy vốn làm ăn
Tạo nên cơ nghiệp đủ phần vẻ vang
Khi La Bốc lên đàng đi khỏi
Bà Thanh Đề cho gọi người làm
Bảo rằng tiền của vô vàn
Mua ngay gà vịt lợn ngan về dùng
Đâu thừa để đem dâng Tam Bảo
Lời con ta hiếu thảo còn xa
Sát sinh ăn sướng thân ta
Tăng sư mà đến hãy đà đuổi đi
Ba năm sau trở về bản xứ
La Bốc giờ đã có thành công
Bán buôn tiền bạc vô cùng
Trở về quê cũ báo công mẹ già
Sai người ở về nhà báo trước
Bà Thanh Đề dùng kế giả ngay
Tràng phan, bảo cái đặt bày
Dối lòng mà nói lời hay như là
Khi La Bốc con ta đi khỏi
Ta phát tâm cúng hiến chư tăng
Đến giờ hơn số năm trăm
Người nhà nghe thấy muôn phần cả vui
Vội đem báo tới nơi La Bốc
La Bốc nghe lòng rất vui mừng
Vừa đi vừa lạy không ngừng
Họ hàng thân quyến mới cùng hỏi thăm
Sao ông lại vừa đi vừa lạy
Phật Pháp Tăng đâu có ở đây
La Bốc hoan hỷ cho hay
Tôi đây kính lạy công dày mẫu thân
Vì Tam Bảo mẹ tôi cung kính
Cúng dàng năm trăm vị tỳ kheo
Bà con buồn bã nói theo
Trắng đen đảo lộn muôn điều trái ngang
Mẹ của ông đâu màng thiện tội
Sự ác tà đánh đuổi chư Tăng
Giết trâu, bò, lợn... để ăn
Mà nay xảo trá nói năng sai lời
La Bốc nghe rụng rời tâm trí
Hồn phách bay ngất lịm giữa đường
Thanh Đề thấy vậy bi thương
Vội liền thề thốt mọi đường trắng đen
Trời lồng lộng thênh thênh mặt bể
Mẹ nói sai sẽ bị bệnh nàn
Chịu nhiều đau khổ muôn vàn
Chết đi sẽ bị đọa nơi ngục đồ
La Bốc nghe lời thề trời bể
Mới chịu tin theo mẹ về nhà
Mới ngay nghiệp báo chẳng xa
Vừa về đến cửa mẹ đà bệnh ngay
La Bốc lo tìm thầy tìm thuốc
Bệnh nặng thêm càng bước hãi hùng
Bảy ngày sau, mẹ lâm chung
Nghĩ tình chữ hiếu mênh mông hải hà
Thủ tang mẹ thường ra phần mộ
Chăm khói hương kinh chú tụng trì
Ba năm mãn hạn tang kỳ
Thời lên đỉnh lễ tâu quỳ Thế Tôn
Quyết xuất gia, Phật môn học đạo
Nguyện phúc lành hồi báo mẹ cha
Cạo đầu, mặc áo cà sa
Pháp danh thụ giới thành là Mục Liên
Mục Liên đã tu thiền tỏ ngộ
Được pháp màu có đủ thần thông
Đứng hàng bậc nhất nên công
Chẳng nguôi báo hiếu tấm lòng mẹ cha
Vận thần thông lên tòa thiên giới
Các tầng trời các cõi thanh vân
Vậy mà chẳng thấy mẫu thân
Buồn lòng, Ngài mới tìm gần Thế Tôn
Phật mới bảo nguồn cơn căn cội
Mẹ của ông gốc tội sâu dày
Bị giam địa ngục đắng cay
Nào đâu có ở tầng mây trên trời
Mục Liên mới nghe lời Phật dạy
Vận thần thông nhập định tức thì
Xuống liền địa ngục tức thì
Thấy tòa ngục lớn trông kỳ gớm ghê
Địa ngục ấy tên thì Bác Hoạch
Ai đọa vào chịu cảnh cơ hàn
Thân hình máu thịt nát tan
Xương khô lai láng ngổn ngang cõi bờ
Mục Liên mới hỏi ngài ngục chúa:
Chúng sinh kia sao đọa ngục này
Đáp lời Chúa ngục cho hay
Những ai kiếp trước thường hay làm càn
Gây sát hại vô vàn sinh chúng
Lại chẳng tin Tam Bảo ở đời
Mục Liên lại đến một nơi
Tên ngục Kiếm Thụ cảnh thời đắng cay
Tội nhân phải vin tay lưỡi kiếm
Ngồi ngọn cây nguy hiểm vô cùng
Thịt tan xương nát hãi hùng
Mục Liên mới hỏi tận cùng căn do
Ngục Chúa đáp thời do kiếp trước
Những kẻ này nhân quả chẳng tin
Sinh linh băm, chặt, rán, chiên
Ăn cho sướng miệng nên liền quả đây
Đi tiếp nữa Mục Liên lại thấy
Một ngục thành tên gọi Đao Sơn
Bao quanh giáo mác đao gươm
Tội nhân tan nát thịt xương ngục này
Mục Liên mới hỏi tày căn cội
Ngục Chúa rằng: những kẻ tội kia
Ấy do lúc sống ngu si
Dùng dao xẻ thịt lợn, dê, trâu, bò
Ninh, nấu, rán, ăn cho sướng miệng
Nên giờ đây chịu cảnh ngục này
Mục Liên từ giã ngục này
Đi lền tiếp đến tới rầy ngục kia
Khô Hà ngục lửa thì thiêu đốt
Cảnh khổ đau chẳng dứt bao giờ
Mục Liên lại hỏi căn do
Ngục Chúa đáp trả: tại do bọn này
Lúc còn sống đặt bày ác nghiệt
Hại dân lành làm chuyện xấu xa
Cho nên chịu quả Khô Hà
Mục Liên nghe vậy xót xa cõi lòng
Đi tiếp tới ngục trung Đồng Trụ
Các tội nhân ôm giữ cột đồng
Cột đồng lửa cháy nóng nung
Tội nhân phải nuốt sắt đồng nóng ran
Mục Liên lại hỏi han căn cội
Chúa Ngục bèn lại nói sự tình
Do vì kiếp trước chẳng lành
Có quyền có thế cậy mình tác oai
Người yếu thế lại hoài đánh đập
Cùng ngông cuồng cướp giật của người
Vậy nên chẳng thoát tội trời
Phải vào địa ngục muôn đời đắng cay
Mục Liên mới từ đây đi tiếp
Ngục Hàn Băng núi tuyết lạnh lùng
Tội nhân buốt giá vô cùng
Mục Liên mới hỏi nội cùng căn do
Chúa ngục đáp vì do tiền kiếp
Cậy sang giàu lấn hiếp sai người
Làm cho đầy tớ khổ rồi
Trời mưa trời nắng cũng thời rầy la
Mục Liên lại đi qua ngục khác
Nơi ngục trung Hắc Ám khổ cùng
Bao nhiêu hình phạt hãi hùng
Mục Liên mới hỏi phân cùng căn do
Chúa ngục đáp thời do tiền kiếp
Những kẻ này bỏ thiện theo tà
Không tin nhân quả cũng là
Vậy nên tạo nghiệp khó ra ngục này
Mục Liên lại từ đây đi tiếp
Tới ngục trung Canh Thiệt là tên
Tội nhân chịu khổ triền miên
Câu sắt móc miệng kéo lên kinh hoàng
Lưỡi bị kéo cày tan khổ sở
Mục Liên bèn hỏi rõ căn do
Đáp lời Chúa ngục nói cho
Căn duyên tiền kiếp bởi do nói càn
Nói thêu dệt lời gian hiểm ác
Vậy cho nên khi thác như vầy
Mục Liên từ giã ngục này
Thẳng đường đi tiếp gặp ngay giữa đường
Thấy quỷ đói hình dường kỳ quái
Cổ như chim đầu lại như trâu
Bụng to như chiếc trống chầu
Kêu gào thảm thiết xin cầu được ăn
Mục Liên mới hỏi thăm cơ sự
Lũ các ngươi trước tạo ác gì
Thấy Ngài, lũ quỷ tâu quỳ
Chúng con đời trước đều vì gian tham
Lòng ích kỷ vô vàn bỏn sẻn
Chẳng kính tin Phật, Pháp, Tăng già
Tội này vì thế gây ra
Bao điều khổ sở cũng là tại đây
Mục Liên muốn chịu thay tất cả
Để tội nhân hết cả khổ đau
Chúa Ngục mới nói trước sau
Ai làm nấy chịu sao hầu chịu thay
Kể cha mẹ tình dày ruột thịt
Cũng không sao thay thế còn hiềm
Ngài và bọn họ chẳng quen
Chỉ còn có cách phước duyên nhường này
Nhờ Tam Bảo ơn dày gia hộ
Còn không thì nạn khổ khó qua
Tìm trong các ngục hết là
Mục Liên chưa thấy mẹ già ở đâu
Đi tiếp bỗng thấy màu ghê lạnh
Ngục Cao Tường vách sắt ngàn trùng
Tường cao muôn dặm vô cùng
Bốn bên lưới sắt giăng trùng trùng vây
Tại ngục này mỗi nơi mỗi cửa
Có chó đồng phun lửa thét gầm
Mục Liên bèn vận pháp thân
Dù dùng thần nhãn cũng không thấy cùng
Dù mọi cách cũng không vào được
Mục Liên bèn tìm tới Phật Đà
Phật ngài mới dạy rằng là
Mẹ ông bị đọa chính trong ngục này
Nếu muốn thấy phải dùng pháp bảo
Bát, y cùng, tích trượng của ta
Muốn mở cửa ngục đó ra
Hãy dùng tích trượng gõ ba cái liền
Mục Kiền Liên phụng hành y giáo
Tới ngục trung gõ gậy ba biến
Lạ thay Phật lực uy thần
Ngục môn bỗng mở phút gần lạ thay
Ngài Chúa ngục liền rầy hoảng sợ
Ông là ai sao mở ngục này
Xin mời ông hãy đi ngay
Chỉ ai ngũ nghịch mới rầy ngục trung
Mục Liên mới nói cùng Chúa ngục
Tôi đến đây muốn gặp mẹ hiền
Báo công dưỡng dục sơn xuyên
Ngục Chúa mới hỏi nhân duyên sự lòng
Rằng ai nói cho ông việc ấy
Rằng mẹ ông ở tại nơi này
Mục Liên ngài mới tỏ bày
Thích Ca Tôn Phật chỉ rầy cho tôi
Chúa ngục hỏi: Ông và Đức Phật
Có họ hàng quen biết ra sao
Mục Liên bày tỏ tiêu hao
Ngài là sư phụ ngôi cao ở đời
Còn tôi chính là thời đệ tử
Nhờ ơn sâu Phật Tổ soi đường
Xin ngài hãy mở lòng thương
Cho tôi gặp mẹ trả ơn sinh thành
Chúa ngục gọi thế danh thân mẫu
Bà Thanh Đề, Vương Xá kiếp xưa
Ngày nay có một nhà sư
Mục Liên Tôn Giả đến đây thăm bà
Mục Liên mẫu - Thanh Đề im lặng
Chúa ngục rằng: sao chẳng chịu thưa
Bà Thanh Đề mới dám thưa
Chỉ vì sợ khổ nếu không đúng người
Vì khi sống có người nam tử
Không xuất gia, tên chẳng Mục Liên
Thế nên chắc chẳng phải quen
Nên tôi không dám nói tên thưa ngài
Chúa ngục trở ra ngoài nói lại
Bà Thanh Đề đúng có một con
Chắc rằng chẳng phải sư tôn
Chẳng đâu thụ giới xuất gia như thầy
Mục Liên cũng là tên chẳng phải
Nghe được vầy ai oán xót xa
Mục Liên nước mắt chan hòa
Chạnh lòng bày cảm gần xa sự tình
Bởi khi trước còn bên cha mẹ
Mẹ đặt cho La Bốc là tên
Đến khi học đạo tham thiền
Tên tôi mới đổi Mục Liên đó mà
Vị Chúa ngục từ tòa giở gót
Bảo Thanh Đề sau trước sự duyên
Vị sư tìm mẹ Mục Liên
Chính là la bốc ấy tên ở đời
Bà Thanh Đề vội lời đáp lại
La Bốc rằng đúng thực con tôi
Bấy giờ Chúa ngục cất lời
Truyền sai ty ngục đưa thời bà ra
Phút gặp gỡ chan hòa nước mắt
Thấy mẹ già gông sắt, cùm tay
Máu tươi lai láng chảy đầy
Mục Liên thấy vậy hao gầy hình dong
Ruột như cắt đôi dòng nước mắt
Thưa mẹ rằng: công đức thủa xưa
Cúng dàng tích đức đâu mà
Tưởng rằng mẹ ở trên tòa thiên cung
Đâu ngờ cảnh lâm cùng địa ngục
Tưởng mẹ con chẳng gặp được nhau
Nay nhờ ơn Phật thậm sâu
Nghẹn ngào giọt lệ mấy câu thâm tình
Mục Liên hỏi ở trên dương thế
Con cúng dàng dâng mẹ tối ngày
Hỏi rằng lợi ích có hay
Thanh Đề bà mới nói ngay sự tình
Rằng cũng tế cũng thành vô ích
Đâu có ăn có uống được nào
Phải nhờ tích đức cần lao
Mới mong cho mẹ khỏi vào nơi đây
Ngục vô gián đêm ngày không dứt
Pháp hành hình ruột đứt xương tan
Uống ăn sắt nóng đồng than
Khổ đau chẳng dứt lại càng xót xa
Ngục Chúa giục, lìa xa đôi ngả
Chưa hết lời thời đã chia ly
Mục Liên cay đắng sầu bi
Ngỏ cùng Chúa ngục: Ngài thì làm ơn
Cho tôi làm tội nhân thay mẹ
Chúa ngục rằng đâu lẽ như vầy
Tội nhân đâu thể chịu thay
Ai làm nấy chịu điều này chẳng sai
Nếu Ngài muốn giải tai cho mẹ
Hãy nương nhờ thần lực Thế Tôn
Mục Liên từ giã ngục môn
Trở về bạch Đức Thế Tôn ân cần
Xin sư phụ từ tâm quảng độ
Vì mẹ con cứu hộ giải nàn
Phật Đà thương cảm vô vàn
Bèn cùng giá ngự lâm đàn thiên cung
Từ hư không chiếu quang địa ngục
Vạc dầu sôi biến túc hồ sen
Gươm đao ác khí mất liền
Tràng phan, bảo cái, tòa tiền pháp vương
Vua Diêm La tán dương khen ngợi
Sự lành thay tất cả chúng sinh
Ơn nhờ cam lộ pháp lành
Kim thân Đức Phận độ sinh cứu đời
Các tội nhân dưới nơi địa ngục
Phút liền sinh tới các tầng trời
Mục Liên bạch Phật tức thời
Mẹ con nay đã sinh nơi chốn nào
Phật mới bảo: mẹ ông nghiệp chướng
Quá sâu dày nên vướng khó ra
A Tỳ ngục mới thoát ra
Lại vào Hắc Ám ngục tòa khổ đau
Mục Liên lại mau mau đi tới
Hắc Ám đề ngục tối mờ đen
Mục Liên gặp được mẹ hiền
Lấy cơm dâng mẹ, cơm liền hóa than
Lệ nuốt lệ muôn vàn thương xót
Mục Liên về bạch với Thế Tôn
Thế Tôn chỉ dạy ôn tồn
Ông nên thiết lễ Lan Bồn thiền trai
Thỉnh đại đức tu thiền đắc đạo
Lập sám đàn hồi báo thâm ân
Ngày rằm tháng bảy hằng năm
Là ngày tự tứ chư tăng tụ về
Nhờ công đức nương về Tam Bảo
Cùng chư tăng tam giới thập phương
Mục Liên y giáo cùng dường
Đã thành mãn quả báo ơn mẹ hiền
Bà Thanh Đề được lên thiên giới
Nơi cõi trời Đao Lợi phúc lành
Pháp môn thù thắng chí thành
Mục Liên y giáo phụng hành nghiêm trang
Phật thuyết pháp Vu Lan tế độ
Khắp bốn loài ba cõi đều nhờ
Đội ơn Phật Pháp vô bờ
Hiện tiền đại chúng kình thờ tụng chuyên
***
Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Vu Lan duyên khởi đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
Nam mô Vu Lan hội thượng Phật Bồ Tát

 =========================================

PHẦN VI: TÂM KINH BÁT NHÃ
1.           Quán Tự Tại một vì Bồ Tát
2.           Khi thực hành trí tuệ thậm sâu
3.           Bến bờ giải thoát đến mau
4.           Khi soi xét được nhiệm màu tinh thông
5.           Thấy năm uẩn đều không tự tính
6.           Mọi khổ đau ác cảnh độ qua
7.           Sắc không có khác đâu mà
8.           Sắc - không, không - sắc chính là một thôi
9.           Cả thụ, tưởng, thức, hành cũng vậy
10. Cũng đều là không đấy mà thôi
11. Tướng không của mọi pháp thời
12. Chẳng sinh chẳng diệt chẳng thời sạch, nhơ
13. Chẳng tăng cũng chẳng thời có giảm
14. Vì thế nên trong tự tính Không
15. Sẽ không có ngũ uẩn thân
16. Cũng sẽ không có lục căn, lục trần
17. Không lục giới, cũng không duyên khởi
18. Tứ đế đều chẳng có trong Không
19. Trí huệ, chứng đắc cũng không
20. Vì không chỗ đắc nên không ngại gì
21. Do không ngại nên không sợ hãi
22. Hiểu được rồi bờ giác mau sang
23. Xa lìa điên đảo mộng vàng
24. Bến bờ giải thoát niết bàn cứu tinh
25. Tam thế Phật y hành bát nhã
26. Đắc thượng ngôi chính giác Bồ Đề
27. Vậy nên bát nhã diệu kỳ
28. Là đại thần chú ứng kỳ đại minh
29. Vô thượng chú , cùng vô đẳng đẳng
30. Thường tiêu trừ khổ ách mọi đường
31. Chú thần chân thật khôn lường
32. Dù cho muôn kiếp chẳng dường dối hư
33. Liền lúc đó Ngài nói bài chú rằng:
34. Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha. (3 lần)


CHÚ GIẢI:
  ĐỀ KINH.
    Tâm Kinh Bát Nhã là bản kinh trọng yếu nói về Bát Nhã - thứ trí tuệ giải thoát, tỉnh thức (khác với trí tuệ thông thường của thế gian khiến người ta chìm đắm vào đau khổ).
 VĂN KINH.
Đoạn 1. Từ câu 1 đến câu 6 ( Tóm lược nội dung kinh)
   + Quán Tự Tại: quán chiếu, soi xét bản thân mình để đạt tới thảnh thơi, làm chủ chính mình và không bị rằng buộc.
   + Năm uẩn: năm nhóm yếu tố hợp thành con người (thân và tâm) bao gồm: Sắc là thể xác, Thụ là cảm thụ, cảm giác, Tưởng là tri giác, hành là hành động tâm tức ý chí, thức là nhận thức
   + Không tự tính (tự tính không): nghĩa bất nhị (không hai) của tự tính. Đó chính là bản tâm. Người ta vì mất bản tâm, nảy ý phân biệt cố chấp , phân biệt sự giàu - nghèo, đẹp - xấu, không có, ít - nhiều .v.v. nên đau khổ. Quét sạch được sự cố chấp này, bản tâm sẽ tự an ngôi chính vị đưa người ta đến chỗ tự tại, thảnh thơi. Thực hành bát nhã chính là phá chấp.
   + Lược ý đoạn 1: Vị Bồ Tát soi xét chính mình danh hiệu là Quán Tự Tại khi thực hành trí tuệ thâm sâu (trí tuệ bát nhã) đã soi xét  được năm uẩn : thể xác, cảm thụ, tri giác, ý chí, nhận thức đều không tự tính, khi đó mọi khổ đau, ác cảnh đều vượt qua được. Đây là phần ý chính tóm lược toàn bộ bản kinh cũng như đại hệ thống tư tưởng Bát Nhã.

 Đoạn 2.  Từ câu 7 đến câu 10 (năm uẩn đều là Không)
     Đoạn này đi sâu vào chi tiết ý nghĩa đoạn 1. Người đời nghĩ năm uẩn khác là chính nó, nên làm mọi nghiệp ác để thỏa mãn ý nghĩ đó. Nay Bát Nhã chỉ ra rằng năm uẩn đều là tự tính không, tự tính không là năm uẩn. Không chấp có nhưng cũng chẳng chấp không. Kinh Hoa Nghiêm nói: "NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO", Sắc là do tâm tạo, không cũng là do tâm tạo, hai cái đều không có Tự tính.  Đây là điều thể hiện sự bình đẳng không phân biệt của bản tâm.

Đoạn 3  Từ câu 11 đến câu 13 (tướng của Không)
     Đoạn này nói về hình tướng của "tự tính không" để hành giả thấy rõ hơn Không là gì.
     Tướng không của các pháp đều chẳng có Sinh - diệt, Sạch - nhơ, Tăng - giảm, tức chẳng có khổ, vô thường, vô ngã và cũng không phải được sinh từ lý Duyên khởi. Đây chính là cây chổi quét sự cố chấp của thế gian. Một số người giải thích theo lý Duyên Khởi cho rằng nhân duyên hòa hợp thì thành sắc, nhân duyên tan rã thì thành không. Ví dụ như gỗ đóng thành sản phẩm là cái ghế, khi nó hỏng người ta đốt nó đi thì thành không vậy sắc và không là như nhau. Giải nghĩa vậy thì sắc và không đã là hai rồi. Để hiểu rõ “tự tính không” phải bám vào “cái tướng không”. Tướng không có đặc tính không có Sinh - diệt, Sạch - nhơ, Tăng - giảm. Điều này lại thấy rõ sự chân thật không biến dời của Không. Khi bản tâm trở về với tự tính Không, người ta không phân biệt nữa. Vì giàu sang phú quý cũng như không nên không tạo nghiệp ác để thỏa mãn cái mong cầu giàu sang nữa.

 Đoạn 4  Từ câu 14 đến câu 17 (Phá tri kiến phàm phu)
          + Ngũ uẩn thân: năm uẩn đã giải nghĩa ở Đoạn 1
          + Lục căn: sáu giác quan: mắt (nhãn) - tai (nhĩ) - mũi (tỉ) - lưỡi (thiệt) - thân - ý
          + Lục trần: sáu đối tượng của lục căn: hình dáng (sắc) - âm thanh (thanh) - mùi (hương) - vị do lưỡi nếm (vị)  - xúc chạm của thân (xúc) - các khái niệm (pháp)
          + Lục thức: cái biết của các căn khi chúng được tiếp xúc với các trần. Ví dụ như cái biết của mắt khi được nhìn thấy vật có hình dáng v.v.v.
          Bát nhã khẳng định trong tự tính Không sẽ chẳng có ngũ uẩn, lục căn, lục trần, lục thức. Biết được những thứ đó đều do tâm phân biệt mà nên, đưa chúng về tính bất nhị, để phá tan sự cố chấp của phàm phu.

Đoạn 5  Câu 17 (Phá tri kiến Duyên giác)
          + Duyên khởi còn gọi là mười hai nhân duyên. Nhân là nhân tố cơ bản để hình thành một hiện hữu, duyên là những điều kiện ắt có và đủ tác động làm cho nhân sinh khởi, tạo thành một vòng tròn nhân duyên, gọi là Thập nhị nhân duyên .
          Vô minh --> Hành--> Thức--> Danh sắc--> Lục nhập--> Xúc--> thọ-->  Ái--> thủ--> Hữu--> Sinh--> Lão tử.
          1.Vô minh là nhân duyên đầu tiên. Ví như mây đen che lấp ánh sáng trí tuệ, vô minh là nguồn gốc của khổ đau, phiền não. "Không tỏ ngộ chân tâm gọi là vô minh" (Bất giác đệ nhất nghĩa đế, vị chi vô minh).
          2. Hành là hành động, tạo tác do vô minh gây ra
          3. Thức là thần thức. Do thân, khẩu, ý, ba nghiệp hành những nghiệp lành, dữ nên khi chết rồi, các nghiệp dẫn dắt thần thức đi lãnh thụ quả báo khổ vui ở đời sau.
          4. Danh sắc là thân thể. Phần tinh thần (tâm) chỉ có tên gọi nên gọi là "danh". Phần thể chất có hình sắc, nên gọi là "sắc".
          5. Lục nhập, tức sáu chỗ vào. Khi đã có thân thể sẽ có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) là chỗ của sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc ,pháp) phản ảnh vào, nên gọi là "lục nhập".
          6. Xúc là tiếp xúc. Khi lục căn tiếp xúc với lục trần
          7. Thụ là lãnh thụ. Căn tiếp xúc với trần sẽ có sự cảm thụ sướng, khổ, không sướng khổ
          8. Ái là ưa muốn. Thụ điều tốt đẹp thì muốn tiếp, thụ điều khổ xấu thì muốn xa lìa
          9. Thủ là giữ lấy; nói rộng ra là các hành động tạo tác để muốn chiếm giữ. Do tham ái mà muốn cố giữ.
          10. Hữu là có. Vì đời này đã có nhân lành hay dữ do mình tạo ra, thì đời sau quyết định phải "có" quả khổ hay vui mà mình phải thọ nhận.
          11. Sinh. Là sinh ra. Do "ái, thủ, hữu" làm nhân hiện tại tạo ra các nghiệp, cho nên đời sau, phải sanh ra đời để chịu quả báo.
          12. Lão, tử. Là già, chết. Ðã có sanh ra, tất nhiên phải chịu các khổ già và chết v.v...
          Quán Thập nhị nhân duyên mà Giác ngộ gọi là Duyên Giác. Bát nhã phá cố chấp của hàng Duyên Giác khi phủ nhận thuyết duyên khởi (12 nhân duyên).

Đoạn 6  Câu 18 (Phá tri kiến Thanh Văn)
          + Tứ đế:  Đế, là sự thật, là chân lý. Tứ đế là bốn chân lý mầu nhiệm.
          1- Khổ đế là thực trạng đau khổ của con người.
          2- Tập đế là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau khổ.
          3- Diệt đế là sự kết thúc hay sự chấm dứt khổ đau.
          4- Đạo đế là con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt khổ đau. 
          Văn Phật thanh giáo: nghe tiếng Phật dạy mà ngộ Đạo, gọi là Thanh Văn. Bát nhã phá cố chấp của hàng Thanh Văn khi phủ nhận thuyết tứ đế.

Đoạn 7  Câu 19 đến câu 22 (Phá tri kiến Bồ Tát)
     Đại thừa phá chấp có trí tuệ nên đắc ngôi Bồ Tát. Bồ tát thực hành trí tuệ nhưng không vướng vào trí tuệ, không chấp trí tuệ cũng như chấp cái đắc được của trí tuệ. Bởi chính vì không chỗ đắc nên không ngăn ngại. Không còn chấp thì không còn vướng ngại vì không vướng ngại nên không sợ hãi.

Đoạn 8  Câu 23 đến 24 (Phá tri kiến Phật)
     Giấc mộng chính là sự giả tạm hư ảo mà con người mãi đắm chìm chưa chịu tỉnh. Một số người giải nghĩa rằng đến đây, bồ tát đã xa lìa điên đảo và đạt được niết bàn. Nếu chấp có cứu cánh Niết Bàn thật để chứng nhập thì cái tri kiến chấp thật này tức là điên đảo mộng vàng, cho nên đoạn niết bàn cứu tinh này cũng không được chấp. Đoạn này bát nhã phá tri kiến Phật thừa.
    
Đoạn 9  Từ câu 25 đến câu 32 (Thành quả của bát nhã)
     Đoạn này nói nên thành quả của bát nhã. Tam thế Phật là ba đời chư Phật (quá khứ - hiện tại - vị lai) cũng chính là chỉ tất cả các Đức Phật đều nương vào trí tuệ bát nhã thực hành và đắc thượng ngôi chính giác Bồ Đề. Sau khi quét sạch cả cái chấp niết bàn (tri kiến Phật) thì mới tự tại mà nên ngôi Phật. Trí tuệ bát nhã như cây chổi quét sạch cố chấp từ Phàm phu, Tiểu thừa, Đại thừa, cho đến Nhất Phật thừa, quét sạch tất cả tri kiến, không còn một pháp nào để chấp rồi mới có thể đạt đến ngôi vị chính đẳng chính giác.
     Sau đó, tâm kinh nhấn mạnh tác dụng lớn lao của thần chú bát nhã theo từng cấp độ. Phá chấp của phàm phu tỏ rõ công dụng là đại thần chú, phá chấp Tri kiến Tiểu Thừa rồi thì hiện rõ công dụng là đại minh chú, phá chấp Tri kiến của Đại Thừa rồi thì hiện rõ công dụng là vô thượng chú, phá chấp được tri kiến Phật Thừa rồi thì hiện rõ công dụng là vô đẳng đẳng chú, đến đây cây chổi phá chấp đã không còn gì để quét nữa, sức Dụng của Bát Nhã đã đạt được đến Cứu cánh, không có gì có thể bằng được, nên gọi là vô đẳng đẳng, cuối cùng là tác dụng tiêu trừ mọi khổ ách mà muôn đời đều đúng, chẳng dối hư. Đến đây thân nhập trí tuệ Bát Nhã đã đến chỗ tự tại.

Đoạn 10 Từ câu 33 đến hết (Tuyên đọc thần chú)
     Bài thần chú với công dụng tự tại. Thần chú là đại diện mệnh lệnh hoặc sức Dụng tự động của Tự tánh, cho nên không cần dịch nghĩa, cũng không cần giải thích, nhưng cũng có người giải rằng: "Vượt qua, vượt qua, vượt qua bờ bên kia, vượt qua hoàn toàn, tuệ giác thành tựu.”

  
 ==============================================
PHẦN VII: HOÀN KINH


1.LỄ PHẬT
Nam mô Phật Pháp Tăng thường ở khắp mười phương (3 lần) O

Nam mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Sa Bà giáo chủ bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật cùng khắp pháp giới chư Phật. (3 biến) O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật cùng khắp pháp giới chư Phật. (3 biến) O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Đông phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật cùng khắp pháp giới chư Phật.O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng khắp pháp giới chư đại Bồ tát. O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát cùng khắp pháp giới chư đại Bồ tát. O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Đại Từ Đại Bi Quán Âm Bồ Tát cùng khắp pháp giới chư đại Bồ tát. O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát cùng khắp pháp giới chư đại Bồ tát. O
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát cùng khắp pháp giới chư đại Bồ tát. O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát cùng khắp pháp giới chư đại Bồ tát. O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát cùng khắp pháp giới chư đại Bồ tát. O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát cùng khắp pháp giới chư Hiền Thánh Tăng. O

3. NĂM ĐIỀU QUÁN TƯỞNG
Thế Tôn lời dạy tỏ tường
Năm điều quán tưởng phải thường xét ra:
Ta đây rồi phải bị già
Không ai tránh khỏi lúc qua canh tàn
Ta đây bệnh tật phải mang
Không ai sống mãi bình an, mạnh lành
Ta đây sự chết sẵn dành
Không ai tránh khỏi tử sinh đến kỳ
Ta đây phải chịu chia ly
Giã từ tất cả, ta đi biệt mà
Ta đi với nghiệp của ta
Dù cho tốt xấu tạo ra tự mình
Theo ta như bóng với hình
Ta nhận quả báo phân minh kết thành  O

4. SÁM MƯỜI NGUYỆN
Một nguyện kính lễ Như Lai
Hai nguyện xưng tán công dày Thế Tôn
Ba nguyện tu phước cúng dường
Bốn nguyện sám hối nghiệp vương tội trần
Năm nguyện tuỳ hỷ công huân
Sáu nguyện thỉnh chuyển pháp luân độ người
Bảy nguyện thỉnh Phật ở đời
Tám nguyện học Phật cho ngời tâm linh
Chín nguyện hằng thuận chúng sinh
Mười nguyện hồi hướng phước lành khắp nơi.O

5. TỰ QUY Y
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại.

6. HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo


=======================================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét